Tuesday 11 October 2016

KHÚC LUYỆN - ETUDE

      Thuật ngữ “ étude” bắt nguồn từ Pháp có nghĩa là nghiên cứu nhưng trong âm nhạc thường được hiểu là “khúc luyện” – một đoạn nhạc ngắn, tương đối khó và được viết để thực hành nâng cao kĩ thuật chơi nhạc cụ. Theo nghiên cứu thì khúc luyện xuất hiện vào đầu thế kỷ 19 và ngày một nhiều hơn khi đàn piano phổ biến. 


    Mục đích chung của khúc luyện là được viết để người chơi nhạc luyện tập, nhằm củng cố và nâng cao kĩ năng về kĩ thuật chơi và góp phần bổ trợ khả năng thỉnh âm. Ví dụ như trong đàn piano, theo các chuyên viên nghiên cứu thì các bản khúc luyện mang hướng rèn luyện cho người chơi thành thục các kĩ năng chạy ngón dài liên tục trên các quãng, đặc biệt là làm cho ngón áp út và ngón út trở nên linh hoạt hơn. Trên đàn guitar thì nghiêng nhiều về kĩ thuật tremolo.

Khúc luyện Op. 36, No. 3 dành cho violin

    Vẫn còn một số lượng lớn các bản khúc luyện được dùng làm tài liệu giảng dạy cho tới ngày nay:

        - Đặc biệt là các tác phẩm của Carl CzernyMuzio Clementi.
      - Một số ít của nhà soạn nhạc lớn như Frédéric Chopin, Franz Liszt Claude Debussy, Johnan Sebastian Bach ..
       - Những bản khúc luyện viết ở thế kỷ 20 theo kiểu truyền thống của György Ligeti và những yêu cầu kỹ thuật không chính thống của John Cage.
    
Thế kỷ 19

      Những bài giảng, tài liệu được biên soạn trước thế kỷ 19 rất khác nhau không theo quy chuẩn nào.

      - “Domenico Scarlatti 30 Essercizi per gravicembalo” 1738  là tuyển 30 bài tập cho harpsichord. (Harpsichord là một nhạc cụ bộ dây phím cổ, chơi bằng cách nhấn các phím trên một bàn phím. Khi một phím được nhấn, một cái búa nhỏ sẽ đập vào dây tương ứng và phát ra âm thanh. Nó là nhạc cụ chuẩn cho hàng loạt các loại nhạc cụ bộ dây khác, như đàn virginals, muselar, và spinet.)
      - “ Clavier-Übung” ( thực hành bàn phím) là khúc luyện song tấu organ đơn giản đến sự đa dạng và khó hơn trong “ Goldberg Variations” của Johann Sebastian Bach.

      Đến đầu thế kỷ 19, các bài tập hướng dẫn trở lên phổ biến hơn. Đặc biệt quan trọng là các bộ sưu tập của Johann Baptist Cramer (xuất bản giữa 1804 và 1810), phần đầu của Muzio Clementi's Gradus ad Parnassum (1817-1826), nhiều tác phẩm của Carl Czerny, Vingt Maria Szymanowska  et prelude (c. 1820), và Ignaz Moscheles 'Studien Op. 70 (1825-1826). Tuy nhiên, bộ sưu tập về sau của  Clementi Moscheles 'Charakteristische Studien Op. 95 (1836-1837)  hai nhà soạn nhạc này đã nghiên cứu để khúc luyện không chỉ phục vụ trong luyện tập kĩ thuật mà còn có thể biểu diễn trước công chúng. 

      Kỹ thuật để chơi Frédéric Chopin, Op. 10 (1833) và Op. 25 (1837) mang tới sự khác lạ. Người biểu diễn đầu tiên thành công là nhạc sĩ bậc thầy nổi tiếng -Franz Liszt. Liszt đã sáng tác một số khúc luyện mở rộng hơn, và thậm chí còn phức tạp hơn của Chopin. Trong số này, nổi tiếng nhất là bộ sưu tập Execution Transcendante (phiên bản cuối cùng được công bố vào năm 1852).

 Chopin - Etude Op. 25 No. 11 "Winter Wind"

    Thế kỷ 19 cũng chứng kiến ​​một số bản khúc luyện cho các nhạc cụ khác ngoài piano. Nhà soạn nhạc guitar - Fernando Sor xuất bản 12 nghiên cứu của mình là op. 6 cho guitar  (London -1815). Những tác phẩm này phù hợp với các định nghĩa tiêu chuẩn về khúc luyện tại thế kỷ 19 vì tác phẩm ngắn, khai thác một khía cạnh duy nhất của kỹ thuật. Bộ sưu tập cho sáo đã được xuất bản vào nửa sau của thế kỷ 19 bởi Ernesto Köhler, Wilhelm Popp và Adolf Terschak.

   Thế kỷ 20

  Những năm đầu thế kỷ 20 xuất hiện một số bộ khúc luyện sưu tập quan trọng như:

     - Études Claude Debussy cho piano (1915) phù hợp với đặc điểm "một khúc nhạc – một kỹ thuật.
  - Bộ 53 Studies on the Chopin Études (1894–1914) được soạn bởi Leopold Godowsky được xây dựng trên các bản khúc luyện của Chopin có nhiều điểm mới khi đẩy các kỹ thuật lên cao hơn.
    - Nhà soạn nhạc Heitor Villa-Lobos với 12 khúc luyện dành cho guitar (1929).
    - Nhà soạn nhạc Nga Sergei Rachmaninoff với Tableaux (1911, 1917)
    - Một số bộ sưu tập của Alexander Scriabin dành cho piano.

   Đến giữa thế kỷ, nhiều bản khúc luyện truyền thống đã bị bỏ. Thay vào đó có:

   - Quatre études de rythme (1949 -1950) của Olivier Messiaen không chỉ còn là bài tập kỹ thuật mà có sự linh hoạt giữa hình nốt, nhịp điệu và sắc thái.
   - Études Australes (1974–75) cho piano của John Cage.
  - Études Boreales (1978) cho cello/piano và  Freeman Études (1977–1980, 1989–1990) cho violin.

       Khúc luyện Freeman Etudes Book One (1977-80) cho violin - Phần 1

 - Ba cuốn sách về khúc luyện của György Ligeti (1985, 1988–1994, 1995) có lẽ là gần với đặc điểm truyền thống là quá tập trung vào một kỹ thuật đặc biệt.

Muối (Tổng hợp và dịch nguồn wikipedia)

2 comments:

  1. Anh ở HN đúng k0? Chắc có thể hẹn anh một thời gian nữa mới học được

    ReplyDelete

Người Theo Dõi