Thuật ngữ “ étude” bắt nguồn từ
Pháp có nghĩa là nghiên cứu nhưng trong âm nhạc thường được hiểu là “khúc luyện”
– một đoạn nhạc ngắn, tương đối khó và được viết để thực hành nâng cao kĩ thuật
chơi nhạc cụ. Theo nghiên cứu thì khúc luyện xuất hiện vào đầu thế kỷ 19 và
ngày một nhiều hơn khi đàn piano phổ biến.
Mục
đích chung của khúc luyện là được viết để người chơi nhạc luyện tập, nhằm củng
cố và nâng cao kĩ năng về kĩ thuật chơi và góp phần bổ trợ khả năng thỉnh âm.
Ví dụ như trong đàn piano, theo các chuyên viên nghiên cứu thì các bản khúc luyện
mang hướng rèn luyện cho người chơi thành thục các kĩ năng chạy ngón dài liên tục
trên các quãng, đặc biệt là làm cho ngón áp út và ngón út trở nên linh hoạt
hơn. Trên đàn guitar thì nghiêng nhiều về kĩ thuật tremolo.
Khúc luyện Op. 36, No. 3 dành cho violin
Vẫn còn một số lượng lớn các bản
khúc luyện được dùng làm tài liệu giảng dạy cho tới ngày nay:
- Đặc biệt là các tác phẩm của Carl Czerny
và Muzio Clementi.
- Một số ít của nhà soạn nhạc lớn như Frédéric Chopin, Franz
Liszt và Claude Debussy,
Johnan Sebastian Bach ..
- Những bản khúc luyện viết ở thế kỷ 20
theo kiểu truyền thống của György Ligeti và
những yêu cầu kỹ thuật không chính thống của John Cage.
Thế
kỷ 19
Những bài giảng, tài liệu được biên soạn
trước thế kỷ 19 rất khác nhau không theo quy chuẩn nào.
- “Domenico
Scarlatti 30 Essercizi per gravicembalo” 1738 là tuyển 30 bài tập cho harpsichord. (Harpsichord
là một nhạc cụ bộ dây phím cổ, chơi bằng cách nhấn các phím trên một bàn phím.
Khi một phím được nhấn, một cái búa nhỏ sẽ đập vào dây tương ứng và phát ra âm
thanh. Nó là nhạc cụ chuẩn cho hàng loạt các loại nhạc cụ bộ dây khác, như đàn
virginals, muselar, và spinet.)
- “ Clavier-Übung”
( thực hành bàn phím) là khúc luyện song tấu organ đơn giản đến sự đa dạng và
khó hơn trong “ Goldberg
Variations” của Johann Sebastian Bach.
Đến đầu thế kỷ 19, các
bài tập hướng dẫn trở lên phổ biến hơn. Đặc biệt quan trọng là các bộ sưu tập của
Johann Baptist
Cramer (xuất bản giữa 1804 và 1810), phần đầu của Muzio Clementi's
Gradus ad Parnassum (1817-1826), nhiều tác phẩm của Carl
Czerny, Vingt
Maria Szymanowska et prelude
(c. 1820), và Ignaz
Moscheles 'Studien Op. 70 (1825-1826). Tuy nhiên, bộ sưu tập về
sau của Clementi và Moscheles
'Charakteristische Studien Op. 95 (1836-1837) hai nhà soạn nhạc này đã nghiên cứu để khúc
luyện không chỉ phục vụ trong luyện tập kĩ thuật mà còn có thể biểu diễn trước
công chúng.
Kỹ thuật để chơi Frédéric Chopin,
Op. 10 (1833) và Op. 25 (1837) mang tới sự khác lạ. Người
biểu diễn đầu tiên thành công là nhạc sĩ bậc thầy nổi tiếng -Franz Liszt. Liszt đã sáng tác một số khúc luyện mở rộng hơn, và thậm chí còn phức tạp hơn
của Chopin. Trong số này, nổi tiếng nhất là bộ sưu tập Execution Transcendante (phiên
bản cuối cùng được công bố vào năm 1852).
Chopin
- Etude Op. 25 No. 11 "Winter Wind"
Thế kỷ 19 cũng chứng kiến
một số bản khúc luyện cho các nhạc cụ khác ngoài piano. Nhà soạn nhạc guitar
- Fernando Sor
xuất bản 12 nghiên cứu của mình là op. 6 cho guitar (London -1815). Những tác phẩm này phù hợp với
các định nghĩa tiêu chuẩn về khúc luyện tại thế kỷ 19 vì tác phẩm ngắn, khai
thác một khía cạnh duy nhất của kỹ thuật. Bộ sưu tập cho sáo đã được xuất bản
vào nửa sau của thế kỷ 19 bởi Ernesto Köhler, Wilhelm Popp và Adolf Terschak.
Thế
kỷ 20
Những năm đầu thế kỷ 20 xuất hiện một số bộ
khúc luyện sưu tập quan trọng như:
- Études Claude
Debussy cho piano (1915) phù hợp với đặc điểm "một khúc nhạc
– một kỹ thuật.
- Bộ
53 Studies on the
Chopin Études (1894–1914) được soạn bởi Leopold Godowsky được xây
dựng trên các bản khúc luyện của Chopin có nhiều điểm mới khi đẩy các kỹ thuật
lên cao hơn.
- Nhà
soạn nhạc
Heitor Villa-Lobos với 12 khúc luyện dành cho guitar (1929).
- Nhà
soạn nhạc Nga Sergei Rachmaninoff với Tableaux (1911, 1917)
- Một
số bộ sưu tập của Alexander Scriabin dành cho piano.
Đến giữa thế kỷ, nhiều bản khúc luyện truyền
thống đã bị bỏ. Thay vào đó có:
- Quatre études de rythme
(1949 -1950)
của Olivier
Messiaen không chỉ còn là bài tập kỹ thuật mà có sự linh hoạt giữa hình
nốt, nhịp điệu và sắc thái.
- Études
Australes (1974–75) cho piano của John Cage.
- Études
Boreales (1978) cho cello/piano và Freeman
Études (1977–1980, 1989–1990) cho violin.
Khúc
luyện Freeman Etudes Book One (1977-80) cho violin - Phần 1
- Ba
cuốn sách về khúc luyện của György Ligeti (1985, 1988–1994, 1995) có lẽ là gần với
đặc điểm truyền thống là quá tập trung vào một kỹ thuật đặc biệt.
Muối (Tổng hợp và dịch nguồn wikipedia)
Anh ở HN đúng k0? Chắc có thể hẹn anh một thời gian nữa mới học được
ReplyDeletePhải rồi. Bạn cứ liên hệ mình.
Delete