Friday, 9 June 2017

CHƠI VIOLIN NHƯ TÔI ĐÃ DẠY – VIOLIN PLAYING AS I TEACH IT – Chương IX: Hòa âm - HARMONICS



CHƯƠNG IX
HARMONICS

I
HÒA ÂM TỰ NHIÊN - NATURAL HARMONICS

NATURAL HARMONIC – được thực hiện khi dây đàn buông- hiện diện với số bốn trên mỗi chuỗi riêng của violin. Ví dụ như trên dây G (Sol), chúng ta có:



Và tương tự, các these harmonics có trên dây D (Rê), A (La) và E (Mi). Các ngón bấm được nêu ra ở ví dụ trên và các ngón bấm khác có thể được sử dụng ở bất kì vị trí nào mà chúng có khả năng chơi được bản ghi hài hoà tự nhiên.


HÒA ÂM NHÂN TẠO - ARTIFICIAL HARMONICS

Artificial harmonics khó chơi hơn so với natural harmonics vậy nên việc luyện tập nó một cách chi tiết là cần thiết để có thể chơi và tạo ra hiệu ứng thực sự hài hòa. Muốn thành thạo kỹ thuật này bạn phải tuân theo một quy luật: thực hiện một cách chậm rãi, chú ý sao cho ngón bấm số 4 đặt đúng vị trí để tạo ra được giai điệu hài hòa (ngón bấm số 1vẫn ở nguyên vị trí). Chỉ cần lệch vị trí một chút sẽ làm âm điệu không chuẩn và dẫn mất đi sự hài hòa của giai điệu. Khi điều này xảy ra, người chơi thường viện dẫn mọi lý do trong khi hầu hết các thất bại là tại ngón bấm số 4 hoặc tại cả ngón bấm số 1 và số 4 đặt không đúng vị trị.

Hệ quả của việc ngón bấm đặt sai vị trí còn rõ ràng và xấu hơn khi chơi một chuỗi hòa âm trong những phần có giai điệu chậm hoặc nhanh hơn. Để giải quyết vấn đề này, trước hết học sinh cần quay trở lại luyện tập quãng bốn đúng, để các ngón tay quen dần với âm điệu chuẩn. Ví du như bài tập sau đây:


 Tiếp tục thực hiện với toàn bộ các âm giai như sau:

Saturday, 3 June 2017

CHƠI VIOLIN NHƯ TÔI ĐÃ DẠY – VIOLIN PLAYING AS I TEACH IT – Chương VIII: Nốt hoa mỹ và gảy


CHƯƠNG VIII
NỐT HOA MỸ (ORNAMENTS) VÀ GẢY (PIZZICATO) 

Trong tiếng Ý từ mordentegrupetto - gọi là "turn" và "grace-notes" (nốt hoa mỹ) trong tiếng Anh - là sự phụ họa cho bản nhạc thêm sinh động đã thịnh hành và được sử dụng rộng rãi trong nhiều thế kỷ qua. Nó chủ yếu được sử dụng trong những bản nhạc có phần chơi chậm mà cách chơi phụ thuộc vào phong cách và cảm xúc âm nhạc của người nghệ sĩ. Đúng là việc sử dụng ornaments (nốt hoa mỹ hay còn gọi là âm tô điểm) đã bị cường điệu hóa quá mức, tuy nhiên toàn bộ vấn đề về sự thêm thắt này trở lên mơ hồ và chúng tôi vẫn phải đang triển khai tổng hợp toàn bộ quy tắc có thể làm tài liệu hướng dẫn cho giáo viên và học sinh. Trong thời gian qua, việc sử dụng ornaments trong chơi đàn violin được giảng dạy theo quan điểm của từng giáo viên, và được chơi theo phong cách, mức độ cảm thụ nghệ thuật của từng người chơi. 

Ngay cả trong thời Leopold Mozart - cha của Wolfgang Amadeus, đã than phiền rằng bản Gründliche Violinschule của mình đã bị các nghệ sĩ violin độc tấu lạm dụng ornaments quá mức, có nguy cơ làm mất đi giai điệu gốc của bản nhạc. Quan sát từ những bản concertos của Viotti và Paganini cho đến những bản sửa công phu khi có thêm ornaments bởi David, Wilhelmj, Kreisler, vv Rode, Kreutzer và Spohr  theo cách họ muốn thực hiện; đặc biệt là các phần, đoạn trong tác phẩm của Johann Sebastian Bach và Mozart bị thay đổi nhiều khi thêm ornaments. Không để đến Beethoven, ở đó có mọi vẻ đẹp và sự phong phú của các nuance (sắc thái) không gì có thể sánh được. Trên thực tế, người chơi không cần phải thay đổi hay thêm các ornaments trong các tác phẩm của những nhà soạn nhạc vĩ đại này.

Có nhiều kiểu ornaments trong violin như appoggiatura (nốt dựa - thuật ngữ âm nhạc tiếng Ý chỉ nốt nhạc thêm vào trước nốt nhạc chính, có trường độ ngắn hơn và cường độ yếu hơn nốt nhạc chính) hay "grace-note", như ở trong ví dụ sau:


Mặc dù có ít nốt nhạc trong bản nhạc trên thì bạn cũng không nên làm xáo trộn nó. Grace-note như một nốt nhạc nhưng lại không được xét tới trong nhịp điệu. Khi chơi chúng bạn nên được hướng dẫn hoàn toàn bởi sự nhạy cảm của chính mình về sự nhịp nhàng của giai điệu. Trên thực tế, mọi thể loại của ornaments đều tuân theo quy luật này. Phần ghi chú (a) trên gạch nhịp (cross-bar) cần chơi khá ngắn,gọn;  trong khi những nốt không chia thành nhịp (b), mượn một nửa giá trị của nốt trước đó nhưng nhịp điệu vẫn không thay đổi, hay nói cách khác là chỉ có sự thay đổi thời gian chơi của nốt nhạc này so với nốt nhạc trước đó.

Sunday, 28 May 2017

CHƠI VIOLIN NHƯ TÔI ĐÃ DẠY – VIOLIN PLAYING AS I TEACH IT – Chương VII: Kỹ thuật double-stops và the trill (PHẦN 2)

 CHƯƠNG VII (Phần 1)
KỸ THUẬT DOUBLE-STOPS VÀ THE TRILL

V
NGÓN BẤM QUÃNG TÁM – FINGERED OCTAVES

Cho đến nay, tôi khám phá ra rằng fingered octaves ( ngón bấm quãng tám) là thành tựu của cuối thế kỷ vừa qua. Dĩ nhiên vẫn có khả năng rằng nó đã được dạy và sử dụng ở thời gian trước đó. Tôi quan tâm đến vì tôi chưa bao giờ, hoặc ít nhất là thoáng nghe qua về nó trong suốt quãng thời ấu thơ và không một giáo viên nào của mình như:  Hellmesberger, Jacques Dont, và Joachim (lúc ở Hanover - trong suốt triều đại của vua mù George từ 1863-1865) đã dạy tôi luyện tập " fingered octaves ".

Cho đến những năm sau đó, khi Wilhelmj chơi bản Concerto D major  của Paganini, ông đã giới thiệu về nó trong một bản cadenza (đoạn nhạc được độc tấu ở cuối một phần trong một bản concerto)- sáng tác của riêng mình. Đây là lần đầu tiên tôi được nghe. Nhờ sự dũng cảm của Wilhelmj mà kỹ thuật này không chỉ mang tới sự mới mẻ mà còn tạo ra những giai điệu rất tuyệt vời.Nhưng để thực hiện kỹ thuật này, chúng ta cần một bàn tay rất to với những ngón tay thon,dài. 



Tuy nhiên, trong các tài liệu violin của thời kỳ này không nhắc tới những hiệu ứng tuyệt vời của cặp “ ngón bấm” quãng tám. Cả những nghệ sĩ vĩ cầm bậc thầy của thời đại như Paganini, Vieuxtemps, Ernst (ngoại trừ bản chuyển biên- ghi lại âm thanh thành chữ viết của ông là Schubert’s Erl-King), Wieniawski, và Bazzini cũng không sử dụng kỹ thuật này trong các tác phẩm của mình.

VI
QUÃNG MƯỜI – TENTHS

Để luyện tập được quãng mười, bạn chỉ cần làm theo các quy tắc đã đặt ra cho ngón tay số 1 và số 4 khi chơi quãng tám. Những ngón tay ngắn sẽ gặp chút khó khăn khi tìm vị trí đầu tiên do khoảng cách kéo căng giữa hai ngón tay. Tuy nhiên nếu cánh tay trái có thể tiến lên hướng về phía dây E (Mi) thì khó khăn này có thể được tháo gỡ.

VII
LÁY - TRILL

Tôi không ngần ngại nói rằng thuần thục kỹ thuật trill (láy) là một trong những tài năng nổi bật nhất của một nghệ sĩ vĩ cầm. Có hai kỹ thuật láy là láy dài và láy ngắn.Nhưng dù là kỹ thuật nào thì cũng cần sự thích ứng phù hợp giữa bàn tay và sức mạnh cơ bắp nhờ sự chuyển động nhanh, linh hoạt của ngón tay và sự dẻo dai, bền bỉ để thực hiện liên tục như một chiếc chuông điện.

Có một số ngón tay được trời phú trở lên dễ dàng thực hiện những đoạn trill dài.Nhưng có những ngón tay kém may mắn hơn, mặc dù siêng năng luyện tập vẫn không bao giờ chơi trill được một cách thành thạo. Vì thế, Wilhelmj -  một nghệ sĩ vĩ cầm vĩ đại nổi tiếng bởi có thể chất dẻo dai lại không giỏi kỹ thuật trill và staccato. Nhưng để bù đắp cho khuyết điểm đó, ông đã nỗ lực để tiếng đàn Stradivarius của mình có âm điệu vang và mạnh mẽ nhất - như tôi nhớ đã từng nghe ông biểu diễn ở Nga cách đây khoảng giữa 44 năm và 45 năm trước đây.


Eddy Brown


Ngược lại Wieniawski và Sarasate chơi được trill từ sớm và thậm chí chơi được những đoạn trill rất dài, tạo nên một yếu tố tuyệt vời trong kỹ thuật chơi của họ. Joachim chủ yếu tỏa sáng bằng những đoạn trills ngắn, lắng đọng. Do đó ông đã chơi đoạn allegro trong bản sonata Tartini, được biết đến với tên gọi là  "The Devil's Trill" - dựa trên kỹ thuật láy ngắn ( short trill) với sự vượt trội không ai có thể bắt chước được.

Để có thể chơi được trill dù trong một đoạn ngắn hay dài thì trước hết các ngón tay phải được củng cố bằng các bài tập thể dục, được thực hiện một cách có hệ thống từng ngày. Các bài tập này có sẵn trong tuyển tập các bài tập double stop mà tôi đã nhắc tới và có thể thêm các bài tập đặc biệt để củng cố cho từng ngón tay. Để việc luyện tập có hiệu quả hơn bạn nên đặc biệt chú ý đến từng điểm yếu của từng ngón tay và có kế hoạch luyện tập phù hợp với từng trường hợp. (Xem thêm trong cuốn Finger- Strengthening Exercises của Alexander Bloch và  Tập I và II cuốn  Books I and II of School of Techinique của Schradieck.)

Nâng ngón tay lên chầm chậm và di chuyển đều đều, sau đó để nó rơi và đặt lên trên dây đàn – bàn tay không tham dự vào quá trình này. Luôn luôn nhớ trong các bài tập luyện cho ngón tay yếu thì chỉ đặt ngón tay lên dây đàn chứ không phải là cả bàn tay. Bạn không thể thành công được trong thời gian đầu luyện tập, đó là vấn đề cần nhiều thời gian đến hàng tháng, đôi khi hàng năm để có thể khắc phục được các điểm yếu của cơ. Tuy nhiên, nếu kiên trì tập luyện đúng phương pháp thì dù bạn không thể chơi trill một cách điêu luyện thì cũng đủ để bạn tạo ra những giai điệu đáng yêu và dễ nghe.
Đối với kỹ thuật trill ngắn và nhanh luyện tập theo ví dụ sau đây:


hoặc là:



Đối với đoạn nhạc yêu cầu sự chuyển động nhanh hơn, thay vì chơi trill trên hai nhịp kéo vĩ, bạn có thể chơi trill trên cùng một nhịp vĩ như sau:


 Tôi luôn đặt ra mục tiêu cho học sinh là chơi tốt kỹ thuật trill, tuy nhiên không nên lạm dụng kỹ thuật đó mà làm mất đi giai điệu chính của bản nhạc. Để tránh làm ảnh hưởng đến giai điệu, cần hoàn thành kỹ thuật trill bằng cách quay trở lại đúng nốt nhạc mà bạn bắt đầu chơi kỹ thuật trill (tham khảo các ví dụ trước) và để kết thúc, người chơi phải tuân theo dấu nhấn – cái cho ta biết nốt nhạc nào cần phải quay lại. Áp dụng điều này cho mọi lần chơi trill rất hiệu quả khi kết hợp với mức độ dài ngắn khác nhau của những đoạn trill.



VIII
HỢP ÂM BA VÀ BỐN ( THREE AND FOUR-NOTE CHORDS)

Bắt đầu chơi các hợp âm gặp rất nhiều khó khăn. Phần lớn các nghệ sĩ violin trẻ tin rằng nếu họ nhấn mạnh cây vĩ lên dây đàn bằng cánh tay, họ sẽ có được một âm sắc đầy đủ và vang. Tuy nhiên, kết quả lại ngược lại. Phần lông vĩ bị ấn mạnh khi trượt trên dây đàn khiến cho chuyển động bị “ nghẹt thở” và mất đi sự rung động. Cách đó có thể tạo ra âm lượng lớn hơn nhưng không thể chơi được một âm điệu mạnh mẽ mà âm sắc vẫn rõ nét do cách kéo vĩ này đã sử dụng toàn bộ bề mặt lông vĩ thay vì chỉ sử dụng ba phần tư bề mặt lông vĩ.  Chỉ sử dụng sự co dãn của cổ tay, và giữ vĩ trượt trong khoảng giữa ngựa đàn (bridge) và phím bấm (finger board), đặt vĩ gần ngựa đàn chứ không nhấc nó đột ngột ra khỏi vị trí sẽ giúp bàn tay khi chơi hợp âm không bị rơi hạ xuống phím bấm và tránh được tiếng rít khó nghe.

Kết luận lại:

1. Bắt đầu chơi hợp âm bằng cổ tay, sử dụng không quá ba phần tư bề mặt lông vĩ.
2. Nhẹ nhàng ấn xuống và cố gắng giữ cây vĩ di chuyển giữa ngựa đàn và phím bấm.
3. Luôn bắt đầu hai nốt nhạc cùng một lúc, như sau:


                 
                        MUỐI lược dịch từ cuốn VIOLIN PLAYING AS I TEACH IT

Wednesday, 24 May 2017

CHƠI VIOLIN NHƯ TÔI ĐÃ DẠY – VIOLIN PLAYING AS I TEACH IT – Chương VII: Kỹ thuật double-stops và the trill (PHẦN 1)


CHƯƠNG VII
KỸ THUẬT DOUBLE-STOPS VÀ THE TRILL

I
ÂM GIAI TRONG QUÃNG BA

Để tăng cường sự dẻo dai và linh hoạt của các ngón tay học sinh nên tiếp tục với các bài tập doubles-tops là kĩ thuật bấm 2 nốt cùng một lúc trên dây đàn (bấm nốt kép).Nhưng bạn không được sao nhãng các bài tập luyện âm giai với từng nốt nhạc.
Ngay khi kĩ năng ngón bấm chuyển từ vị trí này sang vị trí khác khá thuần thục bạn có thể bắt đầu với quãng ba  bằng khóa C (Đô), G (Sol), D (Rê), A(La)  và E (Mi) trưởng một cách từ từ:


Các bài tập nên được luyện như ở ví dụ trên cho cả dấu thăng và dấu giáng. Bằng cách luyện âm giai trong quãng ba, nó có thể giúp học sinh chú ý đến âm điệu khi đang chơi. Sau khi đã quen với double-stops, bạn có thể mở rộng bài tập theo đoạn nhạc dưới đây:


Tiếp đó, luyện các thang âm tương tự như thế trên dây D(Rê) và A(La) với gam Sol trưởng; trên dây A(La) và E(Mi) với gam Rê trưởng. Không thay đổi ngón bấm và thường xuyên chú ý đến âm điệu và sự thay đổi vị trí ngón bấm

Người Theo Dõi